Thứ Ba, 23 tháng 6, 2015

NHÀ BÁO: SỰ NỔI TIẾNG VÀ TAI TIẾNG

Lincoln – Tổng thống Mỹ – nói: “Dù bạn có gọi cái đuôi con ngựa là chân thì con ngựa vẫn chỉ có 4 chân, bởi cái đuôi không bao giờ là cái chân!”.
 

Chuyện đăng ở báo nước ngoài. Có nhà tỉ phú trong lúc hấp hối trên giường bệnh đã gọi điện cho vị tổng biên tập của 1 tờ báo, đề nghị trả 10 triệu USD để được nhận 1 cái thẻ nhà báo. Vị tổng biên tập đồng ý.
Cầm thẻ trên tay, tỉ phú thở hắt những hơi cuối cùng. Vị tổng biên tập kia nói: “Tôi rất tò mò, chẳng hiểu sao ông lại chịu mất 10 triệu USD đổi lấy cái thẻ nhà báo mà chẳng để làm gì cả?”. Nhà tỉ phú đáp: “Ồ, có gì đâu! Sau khi tôi chết đi rồi, thiên hạ sẽ thốt lên rằng: Ôi, thế là trên đời này đã mất đi được một gã nhà báo!”.

Tác giả câu chuyện vui này là một nhà báo nổi tiếng thế giới. Chỉ có những người biết được sức mạnh báo chí mới dám tự đùa cợt mình như vậy. “Kẻ mạnh là kẻ biết tự diễu mình!” – Socrates đã nói.

Sự nổi tiếng

Năm 1997, nhiều ngân hàng đã công bố những con số lãi khổng lồ, có người lại gióng hồi chuông cảnh tỉnh: Cái lợi nhuận khổng lồ đó được hình thành trên việc ăn vào sự thịnh vượng và tính hiệu quả của phần còn lại trong nền kinh tế.

Họ là ai vậy? – nhà báo! Những người có tài năng, sự nhạy cảm để nhìn thấu được bản chất của các vấn đề trước khi chúng mưng mủ theo thời gian. Họ cảm nhận được hơi thở thời đại nóng hổi trong các sự kiện xảy ra đã lâu và nghe được những tiếng vọng mạnh mẽ của quá khứ trong các sự kiện vừa xuất hiện.

Thói quen nhìn vụ việc theo nhiều chiều đã mách bảo họ: Đầu tư nước ngoài tạo ra việc làm và góp phần vào phát triển. Thế nhưng, quá dựa dẫm vào đầu tư nước ngoài, một quốc gia sẽ thất bại trong việc xây dựng nên những doanh nghiệp có sức cạnh tranh toàn cầu của mình. Và chính họ đã báo động xã hội: Các nhóm lợi ích đang đi lệch hướng vào “giấc mơ con”, ở đó lòng tham chỉ nuôi dưỡng những suy nghĩ ngắn hạn, không thấy được các vấn đề lớn của đất nước.

Không chỉ trong những vấn đề kinh tế vĩ mô, người ta gặp các nhà báo ở khắp mọi nơi, kể cả là trong… vườn thú, khi có người ăn chặn cả khẩu phần của loài súc vật. Vạch trần cái xấu – thành tựu cơ bản của thuyết tiến bộ – là một nhiệm vụ của họ. Với sự dũng cảm, ngòi bút nhà báo lật tung những tấm vải điều che đậy nguồn gốc tài sản bất minh của nhiều quan chức tham nhũng.

Họ tranh luận với một nền giáo dục nhồi sọ học sinh bằng những kiến thức vụn vặt và cả những điều to lớn huyễn hoặc chẳng có ích gì cho chính học sinh, xã hội. Còn nếu những cánh rừng già đại ngàn đang đổ rạp dưới lưỡi cưa của bọn lâm tặc, những dòng sông bị ô nhiễm, nước vàng như bị viêm gan biết nói, thì chúng cũng sẽ bày tỏ lòng biết ơn các nhà báo.

Ngày nay, họ lại đứng trên tuyến đầu chiến đấu với những luận điệu xuyên tạc, bóp méo lịch sử của “người bạn vàng” để bảo vệ vùng biển đảo tổ quốc. Khi làm được những điều đó, nhà báo trở thành 
nổi tiếng.

Sự nổi tiếng mang đến quyền lực mềm cho họ. Lời họ nói ra được người dân tin và quan chức phải lắng nghe. Bởi vì nhà báo nổi tiếng thì không bao giờ viết sai sự thật. Mặc dù cuộc đời không giống như 1+1 = 2, đôi khi sự thật lại được hình thành từ sự tình cờ, rủi ro, số phận. Các cuộc phỏng vấn, tài liệu văn bản, chỉ thể hiện những mảnh ghép giới hạn của cả bức tranh. Do đó nhà báo nổi tiếng phải có trực giác nhạy cảm như vòng lông cổ của con chim cú.

Nhất là phải có bề dày văn hoá. Ông Phạm Huy Hoàn – nguyên Tổng Biên tập Báo Lao Động – thường dẫn chuyện: Con gấu mùa hè chịu khó đi tìm mật ong để có một lớp mỡ dày dưới chân. Khi mùa đông đến, không còn mật ong, gấu nằm trong hang mút lớp mỡ dày ở chân mà sống. Có lẽ nhờ lớp mỡ dày (bề dày văn hoá) được tích luỹ từ thời trẻ (mùa hè), bây giờ đã ở tuổi U.80 (mùa đông), ông vẫn làm Tổng Biên tập của tờ điện tử Dân Trí – một tờ báo mạng có số lượng người truy cập nhiều bậc nhất ở Việt Nam.

Lịch sử báo chí Việt Nam ghi nhận rất nhiều nhà báo nổi tiếng tài giỏi. Thường họ là những người coi làm báo là nghiệp, chứ không phải là cái nghề (kiếm sống). Vì là cái nghiệp, họ dám nói không trước sự quyến rũ của tiền và sức mạnh của quyền lực. Bởi vậy, hiếm có nhà báo nổi tiếng thực sự mà giàu.

Hồi mới vào nghề, người viết bài này đã được chứng kiến một cuộc “đối đầu” giữa nhà báo TTT với tổng giám đốc của một công ty tư nhân. Ông này gây dựng nên một sự nghiệp đáng nể từ hai tay trắng. Nói thêm cho vui, tài năng của ông cũng không dừng lại ở đó. Vào tuổi 70, ông còn lấy vợ 20 tuổi và sau đó sinh ra 2 đứa con. Bước chân đến cuộc đối thoại về chuyện công ty ông có trốn thuế như báo đăng tải hay không, vị tổng giám đốc dõng dạc tuyên bố: “Ép đá còn dễ hơn ép tao phải thừa nhận điều đó!”. Quả thật, ông biết nói dối qua từng kẽ răng.

Thế rồi chỉ trong nửa tiếng đồng hồ, bằng những lời nói ngọt ngào, nhỏ nhẹ mang đậm phong thái ung dung của một thầy tu, nhưng sắc như lưỡi dao cạo, nhà báo TTT đã dồn đối phương vào chân tường. Sự thật được ông bóc ra như ông bóc vỏ củ hành. Sau khi ngỏ lời xin người đối thoại mấy viên aspirin vì “đầu nặng như một bịch bùn nhão”, vị tổng giám đốc cáo lui, vẻ mặt giống như người sắp phải làm việc đóng nắp quan tài! Còn người chiến thắng? Gương mặt ông vẫn thản nhiên như đang ngồi với tách cà phê sáng.

Nhà báo nổi tiếng không bao giờ muốn dùng sức mạnh của báo chí đè người. Họ luôn thích thắng tâm phục, khẩu phục. Và càng nổi tiếng bao nhiêu họ càng bình dị, khiêm tốn bấy nhiêu. Có vẻ họ biết câu người xưa nói: Hiền nhân giống như khù khờ.

Và tai tiếng

Cũng là bình thường khi thật hiếm có nhà báo nào lại không thích thương hiệu hay sự nổi tiếng. Nhất là khi đã trải nghiệm mùi vị gây nghiện của việc có được ảnh hưởng đến số phận của người khác. Tuy nhiên, thương hiệu là một nghệ thuật phải biết nắm bắt chứ không phải thứ có thể chụp giật. Và làm thương hiệu nhà báo không phải là việc đánh bóng hình ảnh thô thiển như kiểu trát son đỏ lên môi con lợn quay.

Để có thương hiệu, nhà báo phải có tài năng bẩm sinh và một thời gian nhiều năm sống chết với nghề. Thế nhưng, trong thời đại thức ăn nhanh (fast food), một số nhà báo rất muốn được nổi tiếng nhanh. Họ luôn muốn mình là ai mà không biết mình làm gì. Có điều chắc chắn, họ không thích giống hoặc là không có khả năng làm một chú gấu cần cù kiếm tìm mật ong.

Tôi đã gặp những nhà báo chưa bao giờ mở một cuốn sách quá trang bìa. Ngoài sự thẳng thừng hơn hẳn, họ thua xa các nhà báo ngày xưa về cách đặt dấu chấm, phẩy – nền tảng cơ bản của nghề cầm bút. Vì kiến thức mỏng như cánh chuồn chuồn nên họ thường bị bế tắc trong việc tìm cách thể hiện và hay sa đà vào những vấn đề không hề tồn tại.

Chẳng hạn, họ hốt hoảng vì con chó của một đại gia bị lạc, hay hý hửng khi chụp được bức ảnh cái áo trong của một cô ca sĩ hạng 3 tuột ra khi đang la hú. “Cướp, giết, hiếp” là mỏ vàng đề tài của họ. Thật trớ trêu là những nhà báo ấy lại hay ngộ nhận vai trò của mình. Họ thường cho rằng mình rất quan trọng.

Trong quán cà phê, ở chốn đông người, họ không bao giờ ngừng nói liến thoắng, khoe đã “giã chết” được bao nhiêu “thằng” nếu họ là nhà báo nam, hoặc không bao giờ ngồi khép hai chân, có thể kẹp được đồng xu giữa hai đầu gối nếu họ là nhà báo nữ. Mặc cảm quan trọng khiến họ trở thành người dễ tự ái. Họ thường cãi nhau với các nhân viên bảo vệ, bởi họ cho rằng những người này không đánh giá được hết giá trị của họ.

Ai làm cho họ mất lòng thì họ sôi lên, tìm cách trả đũa. Họ sẽ sục sạo, lần tìm tội lỗi như con khỉ mẹ lần tìm chấy rận, vạch từng cái lông. Khi đã tìm thấy, họ vung bút múa ầm ỹ như băng mãi võ Sơn Đông đi bán thuốc rong ngoài chợ, để cho “mày” phải biết “tao” là ai, mà không cần biết đối tượng có đáng bị thế hay không. Sự công bằng đối với họ là cảm xúc thích hay không, chứ không phải những tiêu chuẩn cố định có thể cân, đong, đo, đếm.

Thế nhưng, những nhà báo này dễ mềm lòng trước tiền bạc. Họ chỉ nhìn thấy những gì mà đồng tiền muốn họ thấy. Tiền cầm tay họ viết những bài báo chỉ dựa trên các bằng chứng chưa vượt quá cái ngưỡng cửa của sự nghi ngờ. Vậy mà họ không ngại ngùng suy diễn, chụp mũ, phê phán. Để bảo vệ mình khỏi bị kiện cáo, họ sử dụng các cụm từ nghi vấn: “Phải chăng?”, “có thể?”.

Họ thường nguỵ biện theo kiểu “mẹ kiếp không phải chửi thề” hoặc là “nhà báo có quyền đưa ra ý kiến của mình”. Nhưng họ phải biết nhà báo không có quyền với sự thật. Lincoln – Tổng thống Mỹ – nói: “Dù bạn có gọi cái đuôi con ngựa là chân thì con ngựa vẫn chỉ có 4 chân, bởi cái đuôi không bao giờ là cái chân!”. Lật hồ sơ của kiểu nhà báo này, người ta sẽ thấy không ít có một quá khứ nặng mùi. Thật buồn lòng khi người đời gọi tên tuổi họ đi kèm với những biệt danh “đói”, “bẩn”.

Sự phát triển như vũ bão của ngành công nghệ thông tin đã đẩy nghề báo vào cuộc khủng hoảng nghiêm trọng, đặc biệt báo giấy. Bây giờ chỉ cần có cái điện thoại di động, anh lái xe ôm trong lúc đợi khách đầu đường có thể vào mạng đọc báo Lao Động, An Ninh Hải Phòng… miễn phí. Hệ quả: Số lượng bạn đọc mua báo ít dần, quảng cáo teo đi. Để tồn tại, nhiều tờ báo đã trôi dạt và mất lái trong dòng xoáy kinh tế thị trường.

Thế là ngày ngày, chuyện “cướp, giết, hiếp”, ăn chơi thác loạn và đủ thứ vô bổ khác được các tờ báo lá cải gào lên từ những quầy báo trên các vỉa hè. Để nuôi những tờ báo này, ông tổng biên tập không cần đến các nhà báo có lớp mỡ dày dưới chân, mà chỉ cần những phóng viên có thể đặt ra các định mức mới cho sự không biết hổ thẹn là gì. Thế là một chị đưa báo, một anh bảo vệ, một ông bán thẻ bảo hiểm… bỗng chốc trở thành nhà báo.

Tờ báo không quan tâm họ có thể tôn trọng ngữ pháp hay không, mà chỉ cần biết họ trị giá bao nhiêu tiền qua các hợp đồng quảng cáo hoặc số lượng những tin bài nhầy nhụa giúp bán được báo.

Sự xa rời những tiêu chuẩn làm báo tất yếu phải dẫn đến sự xuống cấp của nhiều nhà báo. Đã vậy, cơ chế quản lý lỏng lẻo lại cho họ quyền tự do bay nhảy, nhất là phóng viên thường trú ở các địa phương. Nhiều tổng biên tập còn không biết mặt nhân viên của mình. Họ đến và đi như một cái chợ. Vì rất nhiều người không được toà soạn trả lương, họ kiếm sống bằng hoa hồng quảng cáo và tiền nhuận bút. Như thế, nhà báo bán mình cho quỷ là chuyện dễ thấy, dễ hiểu.

Cái thời người dân nhắm mắt tin vào mọi điều báo nói đã qua. Trong đó có phần “công” của nhà báo kiểu này. Hiện tượng nhà báo bị lưu manh đánh, chính quyền tẩy chay, phải được nhìn từ hai phía. Tại sao có các nhà báo chưa bao giờ bị côn đồ manh động và cánh cửa của chính quyền luôn mở cho họ, dù họ vẫn mài sắc bút chiến đấu?

Bởi vì họ không giống những nhà báo thản nhiên ngồi hút thuốc lá trong phòng họp có biển đề “Cấm hút thuốc”, thậm chí hùng hổ kéo đàn như đám kiêu binh (họ thường tụ tập thành những băng nhóm để đánh hội đồng, bởi họ không có tài năng một mình giải quyết vấn đề). Nhà báo đích thực luôn viết báo theo phương châm: “Hãy nhớ bạn đang viết báo cho những người thông minh hơn bạn đọc!”. Nếu viết những điều lảm nhảm, ngây ngô, không kể bóp méo sự thật, thì khả năng bị bạn đọc coi thường, chính quyền từ chối hợp tác trở thành hiển nhiên.


Xã hội vẫn đánh giá cao, trân trọng nhà báo chân chính và cũng lo ngại trước sự nảy nở nhanh chóng của các nhà báo tai tiếng.

                                                                                                        Hà Linh Quân (Báo Lao Động)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét